Nhìn nhận lộ trình cải cách tiền lương giai đoạn 2003 - 2012, rất nhiều chuyên gia lao động và tiền lương cho rằng: trên thực tế, chúng ta mới chỉ tiến hành cải tiến tiền lương chứ hoàn toàn chưa phải cải cách. Cụ thể là, cách thức tính tiền lương vẫn dựa theo bằng cấp và thâm niên chứ không dựa trên năng suất và hiệu quả lao động; cách tính phụ cấp trách nhiệm cũng mang tính hình thức; có quá nhiều loại phụ cấp dẫn đến sự bất bình đẳng về tiền lương và thu nhập giữa các ngành; còn ở khối doanh nghiệp, việc xây dựng thang bảng lương và định mức công việc cho người lao động do doanh nghiệp tiến hành tự phát, không có sự kiểm soát nên các doanh nghiệp thường xây dựng định mức công việc rất cao, khiến người lao động phải làm việc cật lực mới đủ định mức. Điều đó dẫn tới việc lương tối thiểu chỉ đáp ứng 60 - 65% mức sống tối thiểu, và để trang trải đủ cho cuộc sống của mình, người lao động phải làm việc rất nặng, với thời gian dài.

Nguồn: ITN
|
Trong khi đó, gần như thành quy luật, giá cả thường xuyên tăng đón đầu việc tăng lương, mỗi khi có thông tin về việc điều chỉnh mức lương tối thiểu. Tình trạng này đã khiến người lao động gặp rất nhiều khó khăn. Viện trưởng Viện Công nhân và Công đoàn Đặng Quang Điều cho rằng, tình trạng giá tăng trước lương do nhiều yếu tố. Thứ nhất là lương tăng thì nguồn cung tiền tăng. Thứ hai là thông tin tăng lương cũng tạo nên tâm lý té nước theo mưa. Trong khi đó người lao động lại khó khăn thêm, phải cắt giảm chi tiêu, nhất là những chi tiêu cho đời sống tinh thần; chi cho nhà ở, phương tiện đi lại cũng phải điều chỉnh.
Trước thực trạng này, có nhiều ý kiến đưa ra để nhằm cải thiện vấn đề thu nhập cho người lao động. Cụ thể là xây dựng mức lương tối thiểu phải đủ đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu của người lao động (mặc dù đây vẫn là tiêu chí được đặt ra từ hàng chục năm nay khi chúng ta tiến hành lộ trình cải cách tiền lương). Theo Phó chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam Mai Đức Chính, cải cách tiền lương chính là giải pháp cải thiện quan hệ lao động trong các doanh nghiệp tốt nhất. Để cải thiện quan hệ lao động thì quan trọng nhất là xây dựng được mức lương tối thiểu phải đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và có giải pháp buộc người sử dụng lao động thực hiện đúng các cam kết về thang bảng lương, định mức làm việc…
Bên cạnh đó, cần đưa việc thỏa thuận lương giữa người lao động và người sử dụng lao động thành một quy định trong bộ Luật Lao động. Nhà nước đưa ra mức lương tối thiểu để làm cơ sở cho người lao động thỏa thuận với người sử dụng lao động. Mức lương thỏa thuận không được thấp hơn mức lương tối thiểu, nhưng cụ thể là bao nhiêu thì do kỹ năng thỏa thuận mỗi bên. Cơ quan Nhà nước còn có nhiệm vụ cung cấp thông tin về thị trường lao động để người lao động tham khảo khi thỏa thuận lương. Do vậy bên cạnh tay nghề, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ thì người lao động cũng cần trau dồi kỹ năng thương lượng, thỏa thuận với sự hậu thuẫn của tổ chức công đoàn thông qua thỏa ước lao động tập thể.
Mặc dù vậy, dù có thỏa thuận lương cao như thế nào, nếu như không kiểm soát được giá cả thì chúng ta vẫn chỉ cải cách tiền lương chạy theo biến động giá cả. Theo Vụ trưởng Vụ Tiền lương và Tiền công, Bộ LĐ, TB và XH Tống Thị Minh, ngoài những chính sách đối với lao động thì còn cần kiềm chế lạm phát bằng cách thực hiện quyết liệt Nghị quyết số 11 của Chính phủ để giá trị đồng lương của người lao động đúng thực chất.
Theo các chuyên gia công đoàn, nếu như vấn đề lương tối thiểu nói chung và lương tối thiểu vùng dành cho các lao động trong doanh nghiệp nói riêng không được cải cách một cách triệt để thì số lượng các vụ tranh chấp lao động mà nguyên nhân bắt nguồn từ lương - thưởng vẫn còn tiếp diễn.